Được thành lập vào năm 1995, Trường Đại học Hùng Vương TP.Hồ Chí Minh là một trong những trường đại học ngoài công lập đầu tiên tại Việt Nam. Tại Trường Đại học Hùng Vương TP.Hồ Chí Minh, người học đóng vai trò trung tâm, phát huy tinh thần chủ động, sự sáng tạo và khám phá năng lực bản thân. Những giá trị giáo dục toàn diện mà Trường Đại học Hùng Vương TP.Hồ Chí Minh mang lại cho người học có giá trị bền vững theo thời gian.
Quy định về đối tượng được miễn, tạm hoãn học môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh
Theo quy định của Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch 18/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH, đối với sinh viên, có một số trường hợp được miễn học môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP&AN). Cụ thể, các trường hợp bao gồm:
Tuy nhiên, đối với sinh viên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, họ vẫn phải tham gia môn học GDQP&AN tại trường đại học. Sự khác biệt ở đây là họ được miễn học các nội dung thực hành kỹ năng quân sự, như quy định trong Khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch 18/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH.
Tóm lại, GDQP&AN là môn học bắt buộc tại các trường đại học cho tất cả sinh viên, trừ những trường hợp được miễn theo quy định. Điều này giúp đảm bảo rằng tất cả sinh viên có cơ hội nắm vững kiến thức về an ninh quốc phòng và đóng góp cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Học quân sự ở Đại học học những gì?
Môn học Quân sự tại Đại học là một môn học quan trọng của hệ thống giáo dục đại học, chứa đựng một loạt kiến thức và nội dung cốt lõi liên quan đến lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Tuy nội dung cụ thể của môn học này có thể biến đổi dựa trên chương trình học của từng trường, nhưng nó luôn tập trung vào việc đào tạo sinh viên hiểu rõ về những khía cạnh quan trọng của quốc phòng và an ninh quốc gia.
Môn học này thường bắt đầu bằng việc trình bày sự phát triển lịch sử của quốc phòng và quân sự trong quốc gia, với sự tập trung vào những sự kiện và nhân vật quan trọng. Sinh viên sẽ được giới thiệu về tiến trình hình thành và phát triển của lực lượng quân đội, cùng với vai trò quan trọng của nó trong bảo vệ và duy trì chủ quyền quốc gia.
Ngoài ra, môn học Quân sự thường đưa ra những kiến thức liên quan đến chiến thuật và chiến lược quân sự, cung cấp cho sinh viên cái nhìn sâu rộng về cách quân đội được tổ chức, cách họ phân tích và ứng phó với tình hình chiến tranh và hòa bình. Điều này giúp sinh viên phát triển khả năng tư duy chiến lược và đánh giá tình hình một cách logic và khách quan.
Môn học cũng đưa ra kiến thức về các loại vũ khí và trang bị quân sự, bao gồm cả việc sử dụng và bảo quản chúng. Sinh viên thường được đào tạo về kỹ thuật sử dụng súng, đạn, và các công cụ quân sự khác một cách an toàn và hiệu quả.
Ngoài các khía cạnh kỹ thuật, môn học Quân sự cũng bao gồm các vấn đề đạo đức và pháp lý liên quan đến chiến tranh và hòa bình. Sinh viên được giáo dục về quy tắc quốc tế và luật quốc tế áp dụng trong tình huống quân sự, giúp họ hiểu rõ về việc bảo vệ quyền con người và duy trì hòa bình thế giới.
Tóm lại, môn học Quân sự tại Đại học không chỉ cung cấp kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực quốc phòng và an ninh, mà còn phát triển khả năng tư duy chiến lược và đạo đức của sinh viên. Nó giúp họ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của quốc phòng và an ninh đối với sự tồn vong và phát triển của một quốc gia.
Vì sao sinh viên phải đi học quân sự?
Đừng bao giờ nghĩ rằng việc đi học quân sự là một sự lãng phí thời gian, bị bắt buộc hoặc không cần thiết. Thực tế, học môn Quân sự – Giáo dục quốc phòng mang lại cho sinh viên một loạt kỹ năng mềm hữu ích, và sau khi hoàn thành môn học này, bạn sẽ hiểu tại sao nó lại quan trọng.
Trước hết, học quân sự là một cơ hội tốt để rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm. Trong môi trường quân đội, bạn phải tương tác và hợp tác với nhiều người khác nhau. Điều này đòi hỏi kỷ luật, tôn trọng và tuân thủ giờ giấc. Việc này giúp bạn phát triển khả năng làm việc tốt trong nhóm, biết lắng nghe ý kiến của người khác và đóng góp vào mục tiêu chung.
Thứ hai, môn học này cung cấp cho bạn cơ hội rèn luyện kỹ năng xử lý tình huống bất ngờ. Trong quân sự, không phải lúc nào cũng có thời gian để suy nghĩ lâu, và bạn phải đối mặt với các tình huống không mong muốn. Đây là cách bạn học cách điều chỉnh, thích nghi và ra quyết định trong thời gian ngắn.
Ngoài ra, học quân sự cũng giúp bạn phát triển kỹ năng giao tiếp tự tin và lưu loát. Trong quá trình huấn luyện, bạn sẽ phải liên tục tương tác với đồng đội, cấp trên, và cấp dưới. Điều này giúp bạn tự tin khi nói trước đám đông và biết cách truyền đạt ý kiến một cách rõ ràng.
Ngoài những điểm trên, từ trải nghiệm cá nhân của mỗi người, có thể có nhiều kỹ năng mềm khác được học hỏi. Điều này giúp bạn tích luỹ một bộ công cụ kỹ năng đa dạng, giúp bạn tự tin hơn khi bước vào cuộc sống sau này. Hãy nhớ rằng môn học Quân sự không chỉ là việc trang bị kiến thức quốc phòng và an ninh, mà còn là cơ hội rèn luyện bản thân và phát triển kỹ năng quý báu cho tương lai.
Ngày nay, có nhiều lựa chọn cho sinh viên muốn theo học môn Quân sự và Giáo dục quốc phòng tại các trường đại học. Một số trường tập trung vào việc cung cấp giáo dục quốc phòng tại Trung tâm giáo dục quốc phòng, trong khi những trường khác dạy môn này ngay tại trường chính hoặc tại các cơ sở ngoại vi. Điều này mang lại sự linh hoạt cho sinh viên và cho phép họ lựa chọn phương thức học tốt nhất phù hợp với lịch trình và mục tiêu cá nhân của mình.
Bạn có thể tham khảo một số trường đại học dạy quân sự quốc phòng tại trường không phải nội trú qua đêm như:Trường Đại học Tôn Đức ThắngTrường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCMTrường Đại học HutechTrường ĐH Công nghiệp thực phẩm TPHCMTrường Đại học Tài chính – MarketingTrường Đại học Kinh tế – Tài chính TPHCMTrường Đại học Văn Lang.
Có nền giáo dục phát triển, Mỹ và Canada không tổ chức thi đại học chung cả bang hay toàn quốc, các đại học xét tuyển theo tiêu chí riêng.
Nhiều năm làm việc tại Mỹ, bà Trần Phương Hoa, Sáng lập viên và Giám đốc tổ chức giáo dục Summit, thành viên Hiệp hội tư vấn Du học quốc tế, cho biết học sinh lớp 12 ở đây không phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp tập trung. Khi hoàn thành chương trình lớp 12, các em được tính tốt nghiệp phổ thông.
Với những học sinh lựa chọn hình thức "home school" (tự học tại nhà) hay vì lý do nào đó khiến việc học bị gián đoạn, các em có thể đăng ký dự thi GED (General Educational Development) để tốt nghiệp. Kỳ thi này gồm 5 môn, kết quả có thể dùng để làm căn cứ xét đại học. Hiện, toàn nước Mỹ có trên 3.000 điểm thi GED với thời gian tổ chức linh hoạt, thuận tiện cho thí sinh.
Mỗi đại học Mỹ, gồm cả trường công và tư, đều tự chủ chỉ tiêu, cách thức và yêu cầu tuyển sinh để phù hợp với mục tiêu phát triển, nguồn lực của mình. Cũng như thi tốt nghiệp, Mỹ không tổ chức một kỳ thi đại học chung toàn bang hay cả nước mà các trường sẽ chủ động xét tuyển.
Đại học có thể tuyển sinh 1-2 lần trong năm với kỳ mùa thu (bắt đầu vào tháng 8 hoặc 9) và kỳ mùa xuân (tháng 1 hoặc 2). Thậm chí, nhiều trường còn tuyển sinh "rolling", tức là tuyển đến khi đủ chỉ tiêu.
Các trường dùng hệ thống nộp hồ sơ trực tuyến, trong đó phổ biến nhất là Common Application với khoảng 900 trường tham gia với hơn một triệu học sinh nộp hồ sơ mỗi năm, kế đó là Coalition khoảng 150 trường. Nhiều trường khác có hệ thống nộp hồ sơ riêng như hai đại học California, Texas.
Để đảm bảo chất lượng tuyển sinh, các trường thường yêu cầu học sinh nộp bảng điểm kết quả học tập bốn năm 9, 10, 11 và 12, thư giới thiệu của giáo viên, điểm SAT hoặc ACT, bài luận và phỏng vấn. Tuỳ trường và hoàn cảnh cụ thể, những yêu cầu này có thể được bỏ bớt hoặc bổ sung điều kiện chi tiết hơn. Học sinh quốc tế muốn nộp hồ sơ vào đại học Mỹ cần thêm chứng chỉ ngoại ngữ như IELTS, TOEFL để chứng minh năng lực tiếng Anh.
Với kinh nghiệm 15 năm làm tư vấn du học Mỹ, bà Hoa cho rằng ưu điểm lớn nhất trong cách tuyển sinh đại học tại đây là tính linh hoạt, thuận tiện cho cả người học và nhà trường. Học sinh có thể gửi hồ sơ trực tuyến cùng lúc tới hàng chục trường trong một kỳ tuyển sinh, hạn chế rủi ro, sau đó chọn trường có yêu cầu, tiêu chí xét tuyển phù hợp với mình.
Một góc của Đại học Harvard, ngôi trường trong nhóm danh tiếng bậc nhất thế giới. Ảnh: CNBC
Cũng như Mỹ, Canada không tổ chức thi tuyển đại học. Giáo sư Nguyễn Trí Phương, Đại học Quebec, Canada, cho biết chỉ một vài trường top xét hồ sơ, còn lại không đặt quá nhiều yêu cầu bắt buộc, ngặt nghèo với thí sinh, "hầu như bạn nào muốn vào là được".
Theo giáo sư Phương, một số lý do khiến Canada không thi tuyển đại học là khả năng xin việc, thu nhập của những ứng viên có và không tốt nghiệp đại học không chênh lệch nhiều. Thậm chí, sinh viên tốt nghiệp cao đẳng hay trường nghề dễ xin việc hơn.
Cùng với đó, các trường tại Canada đào tạo theo mô hình chóp nón, vào dễ nhưng ra khó. Nếu không học nghiêm túc và xác định mình thực sự cần tấm bằng đại học, sinh viên rất khó tốt nghiệp. Ngoài ra, văn hóa Canada cũng góp phần tác động đến quan điểm người dân, rằng đỗ đại học không phải tất cả. Việc vào đại học của con cái không phải sự tự hào cho bố mẹ hoặc gia đình.
Trước ý kiến Việt Nam nên học hỏi vá áp dụng cách tuyển sinh như các nước phương Tây, giáo sư Phương cho rằng việc này chưa phù hợp ở thời điểm hiện tại vì chất lượng giáo dục Việt Nam chưa đồng đều. Chẳng hạn, nếu chỉ xét học bạ trong ba năm, học sinh và gia đình có thể tận dụng quan hệ cá nhân, khiến thành tích đạt được không hoàn toàn nhờ thực lực. Việc này sẽ làm mất suất của những học sinh đủ khả năng.
Có nền giáo dục phát triển, Mỹ và Canada không tổ chức thi đại học chung cả bang hay toàn quốc, các đại học xét tuyển theo tiêu chí riêng.
Nhiều năm làm việc tại Mỹ, bà Trần Phương Hoa, Sáng lập viên và Giám đốc tổ chức giáo dục Summit, thành viên Hiệp hội tư vấn Du học quốc tế, cho biết học sinh lớp 12 ở đây không phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp tập trung. Khi hoàn thành chương trình lớp 12, các em được tính tốt nghiệp phổ thông.
Với những học sinh lựa chọn hình thức "home school" (tự học tại nhà) hay vì lý do nào đó khiến việc học bị gián đoạn, các em có thể đăng ký dự thi GED (General Educational Development) để tốt nghiệp. Kỳ thi này gồm 5 môn, kết quả có thể dùng để làm căn cứ xét đại học. Hiện, toàn nước Mỹ có trên 3.000 điểm thi GED với thời gian tổ chức linh hoạt, thuận tiện cho thí sinh.
Mỗi đại học Mỹ, gồm cả trường công và tư, đều tự chủ chỉ tiêu, cách thức và yêu cầu tuyển sinh để phù hợp với mục tiêu phát triển, nguồn lực của mình. Cũng như thi tốt nghiệp, Mỹ không tổ chức một kỳ thi đại học chung toàn bang hay cả nước mà các trường sẽ chủ động xét tuyển.
Đại học có thể tuyển sinh 1-2 lần trong năm với kỳ mùa thu (bắt đầu vào tháng 8 hoặc 9) và kỳ mùa xuân (tháng 1 hoặc 2). Thậm chí, nhiều trường còn tuyển sinh "rolling", tức là tuyển đến khi đủ chỉ tiêu.
Các trường dùng hệ thống nộp hồ sơ trực tuyến, trong đó phổ biến nhất là Common Application với khoảng 900 trường tham gia với hơn một triệu học sinh nộp hồ sơ mỗi năm, kế đó là Coalition khoảng 150 trường. Nhiều trường khác có hệ thống nộp hồ sơ riêng như hai đại học California, Texas.
Để đảm bảo chất lượng tuyển sinh, các trường thường yêu cầu học sinh nộp bảng điểm kết quả học tập bốn năm 9, 10, 11 và 12, thư giới thiệu của giáo viên, điểm SAT hoặc ACT, bài luận và phỏng vấn. Tuỳ trường và hoàn cảnh cụ thể, những yêu cầu này có thể được bỏ bớt hoặc bổ sung điều kiện chi tiết hơn. Học sinh quốc tế muốn nộp hồ sơ vào đại học Mỹ cần thêm chứng chỉ ngoại ngữ như IELTS, TOEFL để chứng minh năng lực tiếng Anh.
Với kinh nghiệm 15 năm làm tư vấn du học Mỹ, bà Hoa cho rằng ưu điểm lớn nhất trong cách tuyển sinh đại học tại đây là tính linh hoạt, thuận tiện cho cả người học và nhà trường. Học sinh có thể gửi hồ sơ trực tuyến cùng lúc tới hàng chục trường trong một kỳ tuyển sinh, hạn chế rủi ro, sau đó chọn trường có yêu cầu, tiêu chí xét tuyển phù hợp với mình.
Một góc của Đại học Harvard, ngôi trường trong nhóm danh tiếng bậc nhất thế giới. Ảnh: CNBC
Cũng như Mỹ, Canada không tổ chức thi tuyển đại học. Giáo sư Nguyễn Trí Phương, Đại học Quebec, Canada, cho biết chỉ một vài trường top xét hồ sơ, còn lại không đặt quá nhiều yêu cầu bắt buộc, ngặt nghèo với thí sinh, "hầu như bạn nào muốn vào là được".
Theo giáo sư Phương, một số lý do khiến Canada không thi tuyển đại học là khả năng xin việc, thu nhập của những ứng viên có và không tốt nghiệp đại học không chênh lệch nhiều. Thậm chí, sinh viên tốt nghiệp cao đẳng hay trường nghề dễ xin việc hơn.
Cùng với đó, các trường tại Canada đào tạo theo mô hình chóp nón, vào dễ nhưng ra khó. Nếu không học nghiêm túc và xác định mình thực sự cần tấm bằng đại học, sinh viên rất khó tốt nghiệp. Ngoài ra, văn hóa Canada cũng góp phần tác động đến quan điểm người dân, rằng đỗ đại học không phải tất cả. Việc vào đại học của con cái không phải sự tự hào cho bố mẹ hoặc gia đình.
Trước ý kiến Việt Nam nên học hỏi vá áp dụng cách tuyển sinh như các nước phương Tây, giáo sư Phương cho rằng việc này chưa phù hợp ở thời điểm hiện tại vì chất lượng giáo dục Việt Nam chưa đồng đều. Chẳng hạn, nếu chỉ xét học bạ trong ba năm, học sinh và gia đình có thể tận dụng quan hệ cá nhân, khiến thành tích đạt được không hoàn toàn nhờ thực lực. Việc này sẽ làm mất suất của những học sinh đủ khả năng.